Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2015

THIÊN TÀI VÀ SỰ GIÁO DỤC SỚM - Kimura Kyuichi

Chương 1: Giáo dục từ sớm là đào tạo thiên tài
1. William James Sidis, con trai nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ, Boris Sidis và Norbert Wiener, con trai của tiến sĩ ngôn ngữ Slavơ, là hai ví dụ về sự thành công sớm nhờ giáo dục. Nhưng nền giáo dục mà họ được hưởng được ví như việc nuôi dưỡng trong nhà kính vậy. Những cô bé, cậu bó đó giống như những bông hoa trồng trong nhà kính, được chăm bón để ra hoa kết trái sớm, vì thế trở thành những thần đồng. Nói cách khác, đó chính là "thần đồng nhân tạo", do vậy cũng chịu chi phối bởi quy luật: "10 tuổi là thần đồng, 15 tuổi là tài tử, còn trên 20 tuổi lại là người bình thường".
2. Từ xa xưa đã có những người được hưởng nền giáo dục giống như những cô cậu bé ở trên. Người ta đã quan niệm rằng phải giáo dục con cái ngay từ khi còn là một đứa trẻ sơ sinh.

3. Có thể gọi phương pháp giáo dục như vậy được gọi là "giáo dục từ sớm". Tất cả những người áp dụng phương pháp này đều tin rằng, giáo dục từ sớm có thể đào tạo anh tài, và đây là một niềm tin có căn cứ. Những người chủ trương thuyết cải tạo nòi giống, mà đi đầu là Francis Galton với thuyết ưu sinh, cho rằng người Hy Lạp là những người có phẩm chất ưu tú. Nhưng thực chất, đó là những người được giáo dục từ sớm - một tập quán của người Hy Lạp xưa.
4. Thời điểm bắt đầu giáo dục càng muộn thì khả năng phát huy năng lực sẵn có càng giảm. Tại sao có quy tắc giảm dần này? Ở mỗi loài động vật đều có một thời kỳ phát triển nhất định. Đương nhiên có những khả năng mà thời gian phát triển là khá dài, nhưng có những khẳ năng chỉ có thể phát triển trong một giai đoạn rất ngắn, và nếu không được phát triển trong thời gian đó thì nó sẽ vĩnh viễn mất đi. Lấy ví dụ, khả năng theo dấu gà mẹ ở gà con là trong vòng 4 ngày sau khi sinh, nếu trong khoảng thời gian này mà tách gà con khỏi gà mẹ thì sau đó gà con sẽ không bao giờ biết đi theo gà mẹ nữa. Con người chúng ta cũng vậy. Mỗi chúng ta đề có cơ hội để phát triển, nhưng nếu bỏ qua "thời điểm vàng" của nó thì từng khả năng một sẽ mất đi.



Chương 2: Phương pháp giáo dục của Witte
Karl While là nhà luật học người Đức, người được hưởng phương pháp giáo dục sớm của cha mình. Cha ông đã viết lại một cuốn sách mô tả lại quá trình giáo dục Witte. Kinh nghiệm cuả ông được đúc kết như sau:
- Điều quan trọng nhất là không để tài năng của trẻ mai một dần mà phải biết nắm bắt thời cơ để phát huy tối đa khả năng đó.
- Tuy nhiên việc phát huy năng lực của trẻ cũng cần tuân theo những trình tự nhất định mới có thể đạt được mục tiêu.
- Việc đầu tiên và quan trọng nhất chính là giáo dục ngôn ngữ, bởi ngôn ngữ chính là công cụ để tiếp cận các kiến thức khác. Ông bắt đầu dạy ngôn ngữ cho con kể từ khi Witte biết cảm nhận sự vật. Để phát huy khả năng này, ngay từ đầu nên tìm cách cho trẻ học thuộc và nhớ từ vựng. Khi trẻ đã hình thành vốn từ nhất định, có thể kể những câu chuyện liên quan đến sự vật muốn dạy và kèm thêm vào đó những từ mới có liên quan, đồng thời giải thích ý nghĩa của chúng. Đối với trẻ con thì việc được nghe kể chuyện là điều quan trọng nhất, nhưng không phải chỉ nói cho trẻ một lần, mà ta phải kể lặp đi lặp lại nhiều lần mới hiệu quả.
- Ông không dạy những ngôn ngữ trẻ con, tiếng địa phương, hay âm điệu... theo kiểu truyền thống. Trẻ khoảng từ hai tuổi khi nghe nhiều lần một từ đã có thể phát âm gần chính xác từ đó, vì thế dạy những từ như gâu gâu, meo meo chỉ làm lãng phí thời gian của trẻ. Ông còn dặn vợ và những người trong nhà không sử dụng tiếng địa phương và các ngôn ngữ khác. Ông và vợ phải dùng những từ thật chuẩn, phát âm thậ chuẩn, đồng thời dùng cách diễn đạt chính xác, mạch lạc, trong sáng.
- Ông dạy con đọc từ lúc 3 tuổi, phương châm của ông là không bắt ép, ông tạo hứng thú cho con rồi mới bắt đầu dạy. Ông mua tranh và sách dành cho trẻ em, nghĩ ra những điều thú vị để nói với con nhằm kích thích trí tò mò của con, đại loại như "Con không biết chữ thì làm sao hiểu được cuốn sách này?". Thế là Witte muốn tập đọc chữ và cha Witte bắt đầu dạy. Ông áp dụng phương pháp của Maria Montessori để dạy chữ cho con.
- Sau khi Witte có thể đọc khá rành tiếng mẹ đẻ, cha Witte mới bắt đầu dạy ngoại ngữ cho con. Lần lượt, Witte được dạy thông thạo nhiều thứ tiếng. Về phương pháp dạy ngoại ngữ, ông chủ trương "nghe quen rồi sẽ nhớ" và không đặt nặng vấn đề ngữ pháp. Ông thường kể lặp đi lặp lại một câu chuyện cho con nghe bằng những ngôn ngữ khác nhau, phương pháp này thực sự hiệu quả.
- Cũng từ lúc 3 tuổi, Witte đã được cha dẫn đi dạo ít nhất hai tiếng mỗi ngày, thời gian đó, cha nói với Witte rất nhiều điều. Từng viên đá, cọng cỏ, đều là đối tượng để ông giảng bài. Ông tuyệt đối không bắt ép, mà luôn tạo hứng thú cho cậu bé. Ông cũng không dạy theo hệ thống, mà đưa những kiến thức phù hợp với những thứ con có hứng thú. Hai cha con đã cùng nhau vẽ tấm bản đồ làng mình, khu vực mà họ thường xuyên đi dạo, sau đó cha Witte mua tấm bản đồ chuẩn về để đối chiếu. Witte còn được dẫn vào phòng thí nghiệm, với những dụng cụ thí nghiệm và rất nhiều sách, witte được phép sử dụng tất cả những thứ đó.
- Ông còn khuyến khích con đặt câu hỏi, và giải thích cho con. Nếu gặp những câu hỏi mà ông không nắm rõ, ông cũng ko ngần ngại thừa nhận là mình không biết, từ đó hai cha con sẽ đi tìm hiểu trong sách hoặc đến thư viện.
- Điều đáng chú ý là cha Witte coi trọng việc mở rộng tầm hiểu biết cho con hơn là nhồi nhét kiến thức, và ông tận dụng mọi cơ hội để làm việc đó. Từ khi Witte mới hai tuổi, ông đã đưa Witte đi khắp nơi, sau khi từ những nơi đó trở về, ông để con kể lại tỉ mỉ cho mẹ nghe. Khi Witte 3 tuổi, ông bắt đầu cho Witte đi du lịch khắp nơi, ở mỗi điểm du lịch, ông đều bảo con viết thư kể cho mẹ và những người thân, đến khi về nhà thì kể lại lần nữa.
- Dạy trẻ yêu thiên nhiên là điều cần thiết. Cha Witte đã dành một khoảng nhỏ ngay trong sân nhà để làm khu vường vui chơi cho Witte. Ông rải sỏi, xung quanh trồng nhiều hoa. Rải sỏi để khi trời mưa sẽ nhanh khô, trẻ lại có thể ngồi mà không sợ bẩn quần áo.
- Ông không bao giờ mua đồ chơi cho con. Ông cho rằng trẻ không thể dựa vào đồ chơi mà nhớ được sự vật, cứ cho trẻ chơi rồi lại ném đi là một sai lầm. Điều đó sẽ hình thành thói ưa phá hoại trong tính cách của trẻ sau này. Tuy nhiên, Witte cũng có một bộ đồ chơi, chính là các dụng cụ nhà bếp. Cha mẹ Witte thường tổ chức các trò chơi cho Witte bằng những dụng cụ này. Thông qua các trò chơi, cha Witte đã nỗ lực phát triển năm giác quan cho Witte theo đúng tư tưởng của nhà giáo dục Montessori. Trò chơi của trẻ không nên chỉ là những việc vô ích mà phải thông qua đó giúp trẻ sử dụng được cái đầu, như thế trẻ sẽ không thấy chán và quấy khóc. Witte tuy có rất ít đồ chơi nhưng vẫn không bao giờ thấy buồn tẻ, ngược lại còn vui vẻ, hạnh phúc với số đồ chơi đó.
- Người có cái bụng luôn no căng sẽ có xu hướng trì trệ. Cha Witte cho rằng, tinh lực của trẻ nếu chỉ sử dụng vào việc tiêu hóa thức ăn thì sẽ không thể phát triển não bộ. Vì thế ông không bao giờ ép con ăn nhiều hơn mức cần thiết. Witte chỉ ăn những thứ được cho phép và cậu cũng được dạy bảo điều đó. Cha Witte giải thích cho con rằng nếu ăn quá nhiều thì cơ thể sẽ khó chịu, đầu óc sẽ kém minh mẫn, lâu dần sẽ sinh bệnh, mà nếu bị bệnh thì không học được mà cũng chẳng chơi được.
- Cha Witte khuyến khích con toàn tâm toàn ý trong lúc học, đồng thời phân biệt thời gian học và chơi. Chẳng hạn, lúc dạy con học tiếng Pháp, mỗi ngày ông dành 15 phút dạy con. Trong thời gian này, không ai được làm phiền, và Witte cũng ko được lơ là. Tuy nhiên, ông cũng luôn kết hợp chơi mà học, học mà chơi (tạo hứng thú cho con trong lúc học và tận dụng cơ hội mở mang hiểu biết cho con trong lúc chơi). Nhờ đó mà Witte hình thành thói quen tập trung cao độ trong khi học, và học thông thạo rất nhanh cách ngoại ngữ khác nhau. Witte còn được rèn cho thói quen phải nắm vững triệt để, tìm hiểu tường tận đến nơi đến chốn, chứ ko sơ sơ, đại khái.
- Ngoài ra, cha còn tạo cho Witte thói quen nhanh nhẹn, hoạt bát. Nếu Witte chậm chạp, ù lì thì dù có làm được việc ông cũng không tỏ ra vui mừng. Nhờ đó mà Witte làm gì cũng rất nhanh chóng, và có thời gian để vận động, nghỉ ngơi, tham gia các hoạt động khác. So với những đứa trẻ khác thì Witte ngồi vào bàn học ít hơn rất nhiều. Cậu có đời sống lành mạnh, vận động thường xuyên, vui chơi hợp lý.
- Mỗi ngày, cha Witte chỉ mất một đến hai tiếng vào việc dạy Witte, ông cũng là người có tư tưởng mới khi đề cao giáo dục tại nhà. Về sau, các môn như ngữ văn và nhiều môn học khác, Witte đều tự học, tự nhớ. Đến năm 8, 9 tuổi, kiến thức của Witte đã vượt cả cha mình.
- Ông không chủ trương đào tạo con thành thần đồng, ông chỉ muốn con được phát triển toàn diện, giúp con phát huy mọi khả năng sẵn có và ông nỗ lực để con ông lớn lên trở thành người hoạt bát, khỏe mạnh, hạnh phúc. Ông chú trọng giáo dục đức độ cho con nhiều hơn là tài năng, còn việc Witte trở nên xuất chúng là một điều bất ngờ.
- Nguyên tắc của ông trong việc giáo dục trẻ là cái gì nói không thì nhất quyết không được làm, tránh thái độ bất nhất khi yêu cầu trẻ, lúc thì cho phép, lúc thì không cho. Phương pháp này được áp dụng từ khi Witte một tuổi. Cái gì tốt, cái gì là xấu, những người làm cha mẹ phải nhất quán ngay từ đầu, và không được thay đổi. Tránh mẹ nói một đằng, cha nói một nẻo.
- Ông cho rằng, trong giáo dục thì điều quan trọng là không được dùng quyền làm cha mẹ để che khuất lý trí và làm rối loạn năng lực nhận thức của trẻ. Ông luôn tôn trọng tính hợp lý, luôn giải thích cho Witte hiểu vì sao nên làm việc này, không nên làm việc kia chứ không áp đặt quan điểm. Theo ông, không nên mắng con vô lý, hoặc trách mắng trẻ mà không cho trẻ biết rõ lý do. Nếu làm hỏng năng lực tự phán xét của trẻ thì sau này trẻ sẽ không thể có cái nhìn khách quan, công bằng trong mọi vấn đề. Cũng nhờ vốn từ vựng phong phú, mà Witte có thể dễ dàng hiểu được những lời giải thích của cha, cũng như hiểu được lý do tại sao.
- Ông rất khắt khe trong việc cho con ra ngoài chơi, vì sợ con nhiễm phải tính xấu của bạn đồng trang lứa. Ông nói, tôi đã từng nghĩ rằng trẻ con nếu không có bạn chơi thì sẽ không vui, nhưng xem ra điều này không hoàn toàn đúng. Nếu chúng ta có thể mang trái tim và tâm hồn trẻ thơ để cùng chơi đùa với chúng thì trẻ sẽ vẫn vui mà lại có thể chơi một cách có ích, không bị tác động bởi những thói xấu. Việc trẻ ngoan có những thói quen tốt sẽ tác động đến trẻ hư là khả năng không thể, vì thói xấu là thứ dễ lây nhanh chóng. Đơn giản vì đức tính tốt là thứ cần nỗ lực rền luyện và phải biết tự chủ cao mới có được. Nói như vậy không có nghĩa là tuyệt đối không cho trẻ chơi với những đứa trẻ khác. Đôi khi vẫn nên cho chúng giao lưu, gặp gỡ, tiếp xúc với nhau dưới sự giám sát của cha mẹ. Kết quả là Witte ko bao giờ bị nhiễm thói xấu, ko bao giờ cãi nhau với trẻ khác và chủ động tránh xa mỗi khi thấy bạn có hành vi xấu. Vì thế những đứa trẻ quý Witte đến mức, khi Witte ra về, chúng đều khóc và muốn giữ lại. Ở nhà, Witte không có cơ hội để tranh chấp với ai nên không dễ bị kích động như những trẻ khác, còn những đứa trẻ khác dù có xấu đi nữa cùng không có lý do gì để tức giận với Witte. Đến năm 18 tuổi, Witte vẫn chưa một lần cãi cọ.
- Ông cũng mất rất nhiều công sức để hướng thiện cho con. Ông kể cho con những câu chuyện hướng thiện, và khen ngợi khi con làm được việc gì tốt. Ông cũng chú ý để không khen ngợi quá đà khiến con kiêu ngạo. Ông cũng yêu cầu những người khác không được khen ngợi con mình. Ông nỗ lực để Witte cảm nhận được niềm vui khi làm việc thiện, niềm vui khi nghiêm khắc với chính mình. Chỉ cần ta dốc hết sức làm việc thiện, thánh thần sẽ biết, ông đã làm cho Witte thấm nhuần tư tưởng đó.
- Ông thưởng cho con mỗi ngày một xu cho việc học tập chăm chỉ. Nhưng nếu Witte làm gì sai, ông sẽ lấy lại đồng xu đó. Ông có một cuốn vở để ghi chép lại những việc thiện mà con đã làm.
- Khi Witte lớn hơn một chút, ông dạy Witte rằng, những lời khen ngợi, tán thưởng của nhân gian thường rất dễ thay đổi, dễ có mà cũng dễ mất, còn phần thưởng của Chúa Trời là do việc thiện tích tụ mà nên, rất khó đạt được, nhưng sẽ là thứ vĩnh viễn không thay đổi. Người nào vui mừng trước những lời tán thưởng thì cũng sẽ buồn phiền trước những lời cay độc, và chỉ có kẻ ngốc mới bận tâm về miệng lưỡi người đời.
- Chỉ dạy về nhân cách, tri thức và thể lực thôi thì chưa đủ, mà còn phải thổi được cảm hứng vào trong đó. Chính vì vậy khả năng cảm thụ thơ ca của Witte cũng rất tốt, và có thể khẳng định rằng đây là một người đa tài, toàn diện.

Chương 3: Anh em Thomson, Mill, Goethe được giáo dục như thế nào?
- Anh em Thomson là con của James Thomson, ông bắt đầu dạy ngay khi con mìh biết nói. Phương pháp dạy bắt nguồn từ truyền đạt sự đam mê qua ngôn ngữ. Hàng ngày, trước bữa sáng, ông dắt 4 đứa con của mình đi dạo và kể chuyện cho chúng. Vừa đi, ông vừa khéo léo sắp xếp để cả 4 đứa lần đượt được nắm tay ông. Không chỉ kể chuyện mà ông còn tìm cách kích thích trí tưởng tượng của các con, giúp các con tham gia vào câu chuyện. Ông còn sử dụng thời gian trong bữa ăn để nói rất nhiều chuyện.
- Mill là con của ông James Mill, được cha dạy tiếng Hy Lạp từ năm 3 tuổi, với phương pháp tương tự như của Witte. Cha Mill dạy cho con các từ đơn trước, rồi sau đó cho con đọc sách. Ông đặt bàn học của Mill gần nơi làm việc của mình cho Mill đọc sách và hỏi ông những từ không biết. Ngoài ra Mill còn học toán vào buổi tối. Có ý kiến cho rằng phương pháp của ông hơi thiên lệch vì trong khi Witte học được rất nhiều từ thiên thì Mill học chủ yếu từ sách vở. Thời gian đi dạo của Mill với cha vào mỗi buổi Sáng là lúc để Mill ôn lại và hai cha con trao đổi về những thứ đã đọc. Năm 8 tuổi, Mill bắt đầu học tiếng La-tinh. Và đến năm 18 tuổi, bất kỳ ai cũng phải sửng sốt về lượng sách khổng lồ mà Mill đã đọc.Đến năm 14 tuổi, cha ông đã ngừng phương pháp đó và Mill sang Pháp một năm. Lúc trở về thid Mill bắt đầu tự học và đến khoảng năm thứ 3, 4 trung học thì Mill có thể tự học mà không cần ai hướng dẫn. Mill cho rằng, ngay từ nhỏ, ông đã được tiếp xúc với những kiến thức đỉnh cao, và việc học lúc đó đối với ông rất dễ dàng. Cha Mill không bắt con mình nhồi nhét kiến thức, ông dạy Mill rằng không nhất thiết phải suy nghĩ giống ông mà tự cậu phải tìm ra cách tư duy vượt trội hơn cha mình. Ông cũng tránh để cho Mill nghe những lời tán dương quá mức. Ông dạy con là nếu so sánh với người khác để học hỏi những điều hay ở họ thì hãy so sánh, chứ không nên so sánh chỉ để thấy mình hơn họ. Ông không cho Mill kết bạn và đến trường với những đứa trẻ khác cũng vì không muốn con nhiễm tính xấu. Ông còn cho Mill học các môn thể thao để tăng cường thể lực.
- Goethe, một vĩ nhân trong nền thi ca thế giới, cũng được hưởng nền giáo dục sớm mang tính kỷ luật chặt chẽ của quân đội. Cha Goethe bắt cậu bé học thuộc tất cả các bài đồng dao để làm tăng vốn từ vựng cho cậu. Từ lúc hai tuổi, Goethe được mẹ kể cho rất nhiều chuyện cổ tích. Chưa đầu 4 tuổi, cậu được dạy học thống qua những cuốn sách đơn giản có sử dụng những bài đồng dao này. Cha mẹ cậu còn để cậu tự đọc và kể lại những câu chuyện, cũng như trao đổi những cảm nhận về nội dung chuyện. Lớn hơn một chút, cha dẫn cậu đi dạo quanh vùng và kể cho cậu nghe về lịch sử, địa lý những nới này. Những nơi có liên quan đến đồng dao thì cha Goethe tìm hiểu kỹ và giải thích tỉ mỉ. 8 tuổi, cậu thông thạo 5 thứ tiếng và đã được tiếp cận với nhiều lĩnh vực như khoa học, văn học, hội họa, âm nhạc.

Chương 4: Thiên tài được sinh ra như nào?
- Nếu được giáo dục đúng cách ở một môi trường lành mạnh thì ngay cả những trẻ em không hề có triển vọng vẫn hoàn toàn có thể trở thành nhân tài. Giáo dục có thể mang lại kết quả lớn hơn rất nhiều lần so với những gì người ta có thể tưởng tượng. Đối với một thiên tài thì tư chất là quan trọng nhưng làm thế nào để phát huy tư chất đó? Từ chất đó phải được phát huy trọn vẹn qua giáo dục từ sớm. Thiên tài là kết quả tổng hòa của nhiệt tình, say mê, nỗ lực, chăm chỉ, kiên nhẫn, và óc tưởng tượng. Họ xem công việc của mình như là một nhu cầu thiết yếu - giống như không thể sống mà không ăn vậy. Kiên trì, cần cù, nhẫn nại, là những phẩm chất ko thể thiếu, tuy nhiên có những sản phẩm ra đời trong khoảng thời gian rất ngắn. Tuy nhiên, nhanh hay chậm không phải là tiêu chí để xếp ai đó vào nhóm "thiên tài", mà quan trọng là niềm say mê mãnh liệt (theo đuổi đến cùng) và sự tập trung cao độ.
- Trẻ nhỏ cũng có khả năng tập trung, chỉ cần biết nắm bắt đúng thời điểm và tác động là chúng ta có thể giúp trẻ phát huy tối đa năng lực. Thế nhưng, ở nhiều gia đình, niềm hứng thú và nhiệt huyết của trẻ thường bị dập tắt, thế giới khan hiếm thiên tài là bởi vì lý do đó. Vậy thiên tài do đâu mà có? Một phần là do họ thừa hưởng bộ mã di truyền tốt với khả năng thiên phú dồi dào, cũng như có sẵn niềm hứng thú và nhiệt huyết. Nhưng quan trọng là tinh thần ham học hỏi của họ không bị "vùi dập" theo kiểu "dẫm nát mầm cây". Nếu biết giáo dục khôn khéo thì có thể tạo ra bao nhiêu thiên tài cũng được, điều này đòi hỏi cha mẹ phải nắm bắt "thời điểm vàng" khi trẻ thể hiện sự hứng thí và tập trung cao độ. Việc càng để lâu càng khó, và hiệu quả ngày càng giảm. Thay vì dập tắt, ta có thể làm bùng cháy niềm hứng thú và lòng say mê của trẻ. Đó là cách thiên tài được tạo ra.
- Chúng ta thấy con của nhạc sĩ lớn lên thường có xu hướng trở thành nhạc sĩ, con của học giả lớn lên lại trở thành học giả... đó là vì sống trong cùng một gia đình, trẻ dễ dàng nhìn, nghe và bắt chước những người đi trước. Thuyết ưu sinh cho rằng đây là yếu tố do di truyền, nhưng thực ra không phải.
Niềm đam mê được thắp lên từ thời thơ ấu, cùng với nỗ lực miệt mài là cơ sở để trở thành thiên tài. Đam mê này nếu trong thời thơ ấu không có thì sau này khó mà có được.Nếu không cho trẻ tập trung vào thứ gì cả thì trẻ sẽ trở thành người bình thường. Vì không tập trung thì sẽ không có hứng thú - đây là đặc điểm của người tầm thường.
- Tại sao thiên tài lại có kết quả học tập yếu kém? Nhìn chung, các thiên tài đều có ít nhất một lĩnh vực nào đó vượt trội. Kết quả học tập phổ thông yêu cầu học nhiều môn cùng một lúc, trong khi đó đa số họ chỉ tập trung và yêu thích một môn nào đó. Sự tập trung vào thứ mà họ say mê, làm họ sao nhãng những ?
- Vấn đề không nằm ở khối lượng hay kích thước bộ não, mà ở diện tích bề mặt và số lượng "mối nối" và tính hiệu quả của hệ thống tế bào thần kinh. Nếu không được kích thích để phát triển đúng thời điểm, các tế bào thần kinh sẽ mất dần khả năng kết nối mà những cố gắng sau này chỉ mang lại kết quả rất hạn chế.
- Các thiên tài có tuổi thọ cao là do đặc điểm tính cách của họ - giàu hứng thú và đầy nhiệt huyết. Người ta thường nói học sinh thức khuya thì có hại, nhưng thiên tài thức khuya thì không hề gì. Đó là vì học sinh học trong cảm giác mệt mỏi, chán nản, còn học giả thì làm việc với tinh thần tích cực và hứng thú. Nếu chúng ta cứ nghĩ về những điều đáng ghét trong cuộc sống thì cuộc đời của chúng ta sẽ ngắn lại. Cuộc sống chỉ tốt khi người ta sống hết mình bằng cảm giác khoan khái và hài lòng. Thiên tài là những người cần mẫn và sự cần mẫn đó dựa trên niềm say mê, hứng khởi, nỗ lực của họ không chỉ không có hại mà còn có lợi cho sức khỏe. Kiên trì theo đuổi đam mê của mình - đó là hạnh phúc của thiên tài mà người bình thường không mấy khi biết đến.
- Môi trường sống và giáo dục là yếu tố quan trọng hơn bộ mã di truyền hay tài năng thiên bẩm.

Chương 5: Quan điểm giáo dục của Sidis (Tiến sĩ tâm lý người Mỹ gốc Nga)
- Việc giáo dục từ sớm có ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành tính cách của một cá nhân, từ đó bồi đắp nên những tình cảm lớn như tình yêu đồng loại, yêu quê hương, đất nước. Các gía trị truyền thống của người châu Á, chủ nghĩa tri thức của người Hy Lạp, chủ nghĩa bảo thủ của người La Mã... đều là kết quả của giáo dục từ sớm. Việc giáo dục trẻ ngay từ ban đầu để lại dấu ấn mạnh mẽ trong tính cách của trẻ về sau.
- Điều quan trọng trong giáo dục là không được nhồi nhét vào đầu óc trẻ các khuôn mẫu và từ ngữ học thuật. Hãy giúp trẻ phát huy tiềm năng một cách tự nhiên nhất.
- Giáo dục trẻ hành động theo thói quen là nguyên nhấn khiến tài năng thui chột.
- Kỷ luật cúng làm ngăn trở sự phát huy tiềm năng của trẻ, khiến trẻ vì sợ hãi ma không dám - hay không thể - phát huy khả năng vốn có.
- Giáo dục là một cách để tạo ra thói quen, nhưng không nên áp dụng một khuôn mẫu cố định.
- Dùng uy quyền để gây áp lực cũng làm cho trẻ không thể phát huy tính độc lập trong tư duy và sáng tạo. Không những thế còn khiến trẻ cảm thấy sợ hãi, gây tổn hại lâu dài về thần kinh.
- Việc cáu gắt với những câu hỏi ngớ ngẩn của trẻ cũng sẽ khiến trẻ bị cụt hứng, dẫn đến tâm lý bị ức chế. Cha mẹ phải trả lời tương tận, giải thích thật kỹ vấn đề để trẻ thỏa mãn với những thông tin được cung cấp. Quan trọng là phải nói thẳng, nói đúng sự thật, để trẻ nhận thức đúng đắn về những việc đúng việc sai đang diễn ra xung quanh.
- Những động cơ cơ bản của trẻ thường bắt đầu ở độ tuổi lên hai, lên ba, nếu không được kích thích phù hợp trong giai đoạn này thì cả hành vi, cảm xúc và cả tâm hồn đều không phát triển được đầy đủ.
- Nếu không được sử dụng và phát huy đúng cách thì năng lực của trẻ sẽ không phát triển được.
- Chúng ta đã không chú trọng mục tiêu của giáo dục là có những con người với trai tim nhân hậu, thậm chí chúng ta cũng bỏ quên việc phát huy các đặc điểm tâm lý của trẻ, do đó trái tim của trẻ như cây khô, chết mòn, làm sao trẻ có thể đam mê, hứng thú?
- Giáo dục không nhất thiết phải gò trong khuôn phép, hay giới hạn trong những suy nghĩ, ý tưởng cũ của lớp người đi trước. Giáo dục thực sự phải là sự thương xuyên và kiên trì theo dõi, phát huy khả năng của trẻ, từng chút, từng chút một.
- Việc khuyến khích trẻ học sớm không hề ảnh hưởng tới thần kinh, phương pháp giáo dục áp đặt chủ quan, rập khuôn ở các trường học hiện nay mới gây nhiều thiệt thòi cho trẻ. Nếu học nhiều nhưng học với sự say mê thì không hề làm tổn hại hệ thần kinh, và trong tâm trạng thoải mái trẻ dễ dàng tiếp thu kiến thức hơn.
- Giáo dục sớm cũng rất có lợi về mặt kinh tế, vì một đứa trẻ lên 10 đã có trình độ tương đương với sinh viên đại học. Nếu áp dụng tốt thì việc tạo ra thiên tài nhiều như lá mùa thu là điều hoàn toàn có thể. Vận mệnh nhân loại phục thuộc vào chất lượng giáo dục.
- Còn một việc quan trọng nữa là giáo dục tinh thần lành mạnh, điều này cũng quan trọng như giáo dục thể chất vậy. Nỗi sợ hãi và dị đoan rất có hại cho tinh thần của trẻ. Cần tránh những sự khủng bố về tinh thần. Cần nuôi dưỡng tinh thần lành mạnh của trẻ và dạy trẻ biết tự bảo vệ tinh thần của mình bằng cách giúp trẻ nhận thức và tự tránh xa những cái xấu xung quanh, nó cũng quan trọng như việc bảo vệ thân thể vậy. Sơ hãi, những điều u  mê, sự kém hiểu biết đều ảnh hưởng xấu tới sự phát triển tinh thần của trẻ. Cha mẹ cần tránh những hình thức đánh mắng, dọa nạt, miệt thị, kể chuyện ma cho trẻ... như vậy không có nghĩa là tuyệt đối không được mắng trẻ, cái chính là đừng khiến trẻ bị khủng bố tinh thần.

Chương 6: Phương pháp giáo dục của Berle (Giảng viên môn thần học người Mỹ gốc Đức)
- Cần giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ngay từ sớm, vì ngôn ngữ là con đường đưa trẻ đến với các tri thức khác. Phải dạy ngôn ngữ một cách triệt để, tức là phải phát âm rõ ràng, giúp trẻ ghi nhớ từ ngữ thật chính xác.
- Phải làm sao để dùng thời gian ít nhất nhưng đem lại hiệu quả cao nhất. Việc dạy những từ mà trẻ không bao giờ sử dụng chẳng khách nào đã làm cho trẻ phải mang gánh nặng gâp hai lần. Hãy dạy những từ chuẩn. Không dùng từ sai/ bắt chước cách phát âm sai của trẻ, bởi trẻ sẽ không nhận ra chỗ sai của mình. Phải cố gắng dạy trẻ càng nhiều từ trong sách càng tốt, nhằm giúp trẻ dễ dàng đọc sách sau này. Cần chú ý đến việc chọn sách cho con. Để huấn luyện trí não cho trẻ thì tốt nhất là dạy ngoại ngữ.
- Nuôi dưỡng tinh thần cũng quan trọng như thể chất. Thức ăn của tinh thần là tri thức, việc chọn lựa những tri thức dễ tiếp thu cũng giống việc chọn những thức ăn dễ tiêu hóa cho dạ dày trẻ. Nếu không bồi dưỡng tri thức mà mong tinh thần phát triển thì chẳng khác nào câu cá trên cây.
- Phương pháp cung cấp tri thức của ông là chọn một đề tài dễ hiểu để nói cho con nghe, khích lệ con đặt câu hỏi rồi ông vừa trả lời, vừa cung cấp thêm các kiến thức mới cho con.
- Không nên để trẻ lãng phí thời gian vào những việc vô ích, muốn vậy thì các bậc cha mẹ phải theo dõi sát sao và giúp con sử dụng hợp lý thời gian của mình.
- Điều quan trọng trong việc giáo dục con cái là không được đánh giá thấp trẻ. Có sự khác biệt về yếu tố di truyền, song điều đó là không đáng kể.
- Ông khuyến khích con ghi lại những chuyện xảy ra hằng ngày. Cách làm đó giúp cha mẹ nhận ra điều gì trẻ đã biết, điều gì còn mới lạ, từ đó bổ sung thêm những từ ngữ và kiến thức mới.

Chương 7: Phương pháp giáo dục của Stoner. (Giảng viên môn ngôn ngữ tại đại học Pittsburgh, Mỹ)
- Tôi bắt đầu giáo dục con bằng việc huấn luyện 5 giác quan. Cần huấn luyện cho trẻ sử dụng giác quan càng sớm càng tốt.
- Ngay từ khi còn nằm nôi, trẻ đã biết chú ý đến hướng phát ra tiếng động, vì thế cha mje có thể dạy ngôn ngữ cho con từ rất sớm. Âm nhạc và nhịp điệu cũng nên được trẻ tiếp thu vào thời điểm này.
- Phải huấn luyện tinh thần cho con càng sớm càng tốt, việc huấn luyện này nên được thực hiện dựa trên các trò chơi.
- Phải tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với thiên nhiên và vui chơi với động vật.
- Những câu chuyện là cánh cửa đến với thế giới của tâm hồn và trí tưởng tượng.
- Tạo cho trẻ thói quen ghi nhớ bằng tai
- Hãy dạy toán dưới dạng trò chơi
- Cho trẻ có không gian vận động, dạy trẻ các trò chơi rèn luyện sự khéo léo của đôi bàn tay, và khả năng điều khiển thân thể.
- Cần giám sát con thay vì để trẻ tự chơi.
- Cho trẻ đến, thao gia vào những môi trường xã hội mới để trẻ phát triển các kỹ năng xã hội.
- Phương pháp của Montessori không giúp trẻ phát huy trí tưởng tượng, thích hợp hơn với những trẻ chậm phát triển.
- Giáo dục trẻ không chỉ là giáo dục nhận thức mà còn là giáo dục nhân cách, cha mẹ phải là tấm gương cho trẻ noi theo. Đối với việc ươm mầm đạo đức cho tâm hồn trẻ thì việc giáo dục càng bắt đầu sớm càng tốt.
- Các tính cách cần nuôi dưỡng: sự chuyên cần, tính dũng cảm, kiên trì, khả năng làm chủ bản thân, lòng tự trọng, sự quan tâm đến người khác, trung thực, nhường nhịn, giúp đỡ, yêu thương con người và động vật...
- Không bao giờ quát mắng con mà cố gắng phân tích đúng sai một cách cặn kẽ để con hiểu.
- Không nuôn chiều con quá nhưng cũng không được la rầy nhiều quá. Thay vì la rầy, hãy áp dụng phương pháp thưởng phạt phân minh.
- Cha mẹ cần đối xử với con cái theo nguyên tắc giao tiếp xã hội, ko nên ra lệnh cho trẻ mà phải nghĩ cách để trẻ tự nguyện làm.
- Cha mẹ cần giữ hình ảnh đẹp trong mắt con cái, cũng như phải giữ con luôn sạch sẽ.
- Không nên nhồi nhét những nỗi sợ vào đầu trẻ, vì trẻ có thể dễ bị kích động, ảnh hưởng đến thần kinh, trở nên hèn nhát, rất bất lợi cho tương lai.
- Đừng nói "con không thể làm được", mà hãy nói "con sẽ làm được, cố lên". Ngoài ra, cần rèn luyện thói quen tự động viên cho trẻ.
- Sự bảo bọc quá đáng cũng không tốt, sợ con ngã mà không cho trượt băng, sợ con thất bại mà không cho con làm những việc con muốn làm, không chỉ bỏ lỡ cơ hội học hỏi mà còn tập cho trẻ tính thiếu tự tin, sợ hãi trước cái mới.
- Tuyệt đối không được nói dối, vì nếu trẻ phát hiện ra sẽ mất lòng tin, không thể giáo dục được nữa.
- Để trẻ phát triển tốt thì gia đình phải là nơi đầy ắp tiếng cười. Người mẹ cần duy trì điều đó.
- Sức khỏe là nền tảng của sự phát triển nên cần đảm bảo nguồn nước trong lành, tinh khiết cho trẻ. Chú ý cho trẻ ăn vừa đủ, tránh cho ăn quá nhiều gây tình trạng chướng bụng khó tiêu, gây khó chịu, mệt mỏi. Làm sao để trẻ thấy ăn uống là niềm hạnh phúc chứ không phải là nghĩa vụ.
- Tránh để trẻ sợ hãi, lo lắng, buồn phiền, tức giận, bất mãn vì những cảm xúc này ảnh hướng xấy tới tinh thần trẻ, làm cho trẻ suy yếu cả thể chất lẫn tinh thần, sinh bệnh tật và không phát triển được. Điểm lại những việc trẻ đã làm sai để la mắng là điều không nên.
- Số phận của một dân tộc nằm trong tay các bà mẹ.
Chương kết: Có thể tổng kết lại một vài điểm như sau:
1. Không được ỷ lại vào trường học.
2. Đừng tin vào quan điểm tài năng là do trời phú. Giáo dục đúng cách có thể tạo thành nhạc sĩ, họa sĩ, học giả, thi nhân... Không gì là không thể
3. Giáo dục sớm không phải là dạy đọc viết sớm mà làm phong phú vốn từ vựng cho trẻ qua việc nói, hát, đọc... cho trẻ nghe, cũng như giúp trẻ phát huy mọi khả năng của mình.
- Có nhiều phương pháp để tham khảo, nhưng không được tập khuôn. Cha mẹ phải tự tìm tòi, không nên quá tin tưởng vào cách thức giáo dục của ai.
4. Cha mẹ cần nuỗi dưỡng tham vọng cho trẻ.

1 nhận xét: